20210318 Cong Dong Tham Luan
Lac Viet lacviet2109@gmail.com
Wed, Mar 17 at 3:04 PM
Trưng Nữ Vương &
162 Liệt Nữ Anh Hùng Dân Tộc
6 tháng 2, QL4900 – March 17, 2021
20210317 CDTL 00Ôn lại trang sử hào hùng của Liên Bang Bách Việt.
Đánh bại quân Đông Hán xâm lược của Hán Vũ Đế.
Từ năm 30 đến năm 43 sau công nguyên.
Đã
từ lâu lắm, toàn dân Việt Nam luôn quý mến và ngưỡng mộ Hai Bà vì các Ngài đã
đứng lên lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Đông Hán đã cai trị nước ta từ
năm -111 (trước Công Nguyên) đến năm +40 (sau Công Nguyên). Cuộc kháng
chiến kéo dài từ năm +30 đến năm +40.
Thắng
trận, sau khi chiếm lại 65 thành trì Hai Bà lên làm vua đóng đô ở Mê Linh đến
năm +43. Sau đó, nhà Hán sai Mã Viện báo thù, Hai Bà và quân dân Bách
Việt đã bị thua trận và Nhà Hán tiếp tục đặt ách nô lệ lên Dân Tộc ta suốt
một nghìn năm cho đến thời Ngô Vương Quyền với chiến thắng Bạch Đằng lần thứ I
năm 939 thế kỷ thứ 10 (Sau Công Nguyên) Nhà Ngô đã lấy lại chủ quyền cho Đất
Nước.
Tuy
vậy, Nhà Ngô chỉ giải phóng được khu vực Lạc Việt sông Hồng, còn các Tộc Việt
khác của Liên Bang Bách Việt nằm tại vùng Quảng Đông, Ngũ Lĩnh, Quảng Tây,
Trung Nguyên (bờ Nam sông Dương Tử) vẫn còn bị giặc Đường, Minh, Tống, Thanh,
Hán chiếm đoạt và đô hộ cho tới tận hôm nay.
Thật
ô nhục, Giặc Hán Gian HCM thế kỷ 20/21 lại đang tâm lập kế hoạch lâu dài dâng
đất “Việt Nam sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long” mảnh Quê Hương cuối cùng
cho giặc Bắc Phương mà chúng gọi “Kẻ Thù Là Cha”.
Tuy
vậy, có lẽ đa số chúng ta mới nghe lần đầu danh hiệu của Hai Bà là Trưng Đại
Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Nhân đây chúng ta cùng rà soát lại một số yếu tố
lịch sử liên quan đến cuộc Kháng Chiến chống Quân Xâm Lược nhà Đông Hán từ năm
+30 đến năm +40 sau Tây Lịch.
Từ
năm -111 (trước công nguyên) đến năm +30 (sau công nguyên) Bách Việt nói
chung, Lạc Việt Sông Hồng nói riêng, bị nhà Hán xâm lăng, tuy vậy sự đô hộ chưa
toàn diện. Lạc Hầu, Lạc Tướng vẫn là những quan tướng Việt lo việc an dân như
thời kỳ Hùng Vương (Các Vua Hùng là chính quyền trung ương của nền Cộng Hòa
Liên Bang Bách Việt). Nhà Hán chỉ thâu thuế lúa gạo là chính.
Từ
năm +30 đến năm +40, Hán Vũ Đế bắt đầu cho quân trú đóng và đặt ách
nô lệ hà khắc ảnh hưởng trực tiếp từ Vùng Đồng Đình Hồ Sông Dương Tử (gần
Hồ Bắc – Vũ Hán ngày nay) đến rặng Ngũ Lĩnh, Quảng Đông, Quảng Tây và vùng
Sông Hồng trong đó có việc Tô Định giết Thi Sách chồng Bà Trưng (chị) là Lạc
Tướng huyện Châu Diên vùng Lạc Việt Sông Hồng.
Bà Trưng đã được các thủ lãnh tôn vinh là Đế để lãnh đạo cuộc kháng chiến giành Độc Lập của tộc Lạc Việt sông Hồng và của cả khối Liên Bang Bách Việt. Bà Trưng (chị) không chỉ vì thù chồng và hận giặc Tô Định tham tàn như sử “Việt-Tàu” viết, mà chí lớn hơn người đã đứng lên liên kết, một cuộc liên kết rộng lớn bao gồm cả vùng Đồng Đình Hồ, Trung Nguyên, Lĩnh Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và vùng Sông Hồng cùng đứng lên Giải Phóng Đất Nước khỏi sự thống trị tham tàn của Giặc Đông Hán.
20210317 CDTL 01Công
cuộc gìn giữ độc lập cho Dân Tộc được khởi đầu bởi Thánh Gióng, một thanh niên
rất trẻ cùng toàn dân chống giặc Ân đời Hùng Vương Thứ VI (thế kỷ 17 trước công
nguyên). Và bây giờ năm +30/+40 (thế kỷ thứ I sau công nguyên) đã qua các thời
Vua Hùng, vận nước suy vi vì bị giặc Đông Hán thống trị, Bà Trưng đã cùng rất
nhiều các nữ tướng trên khắp lãnh thổ Bách Việt đứng lên đánh đuổi giặc ngoại
xâm giành độc lập cho nước nhà.
Trong
số 162 Nữ Tướng (được gọi là Công Chúa) có Bà Trưng “Em” là công chúa Bình
Khôi, và các Công Chúa khác như công Chúa An Bình, Công Chúa Thánh Thiên, Công
Chúa Gia Hưng, Công Chúa Vĩnh Huy, Công Chúa Trinh Thục, Công Chúa Nga Sơn,
Công Chúa Nghi Hòa v.v. Công Chúa là danh vị Đại Tướng vùng lúc bấy giờ.
Cuộc
chiến giải phóng giành độc lập hầu như khởi động đồng loạt trên toàn lãnh thổ
bao la của Liên Bang Bách Việt từ Hồ Đồng Đình đến Trung Nguyên đến rặng Ngũ
Lĩnh thượng nguồn sông Tương (Ai có về trên bến Sông Tương nhắn người em gái
tôi thương…) đến vùng Sông Hồng (cực Nam là Đèo Hải Vân).
***
Con
Sông Tương có nguồn nước bắt đầu từ Đồng Đình Hồ chảy dài theo
hướng Bắc Nam chảy ngang ôm chân núi Thiên Đài tận hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây.
***
20210317 CDTL 02Trận
chiến được mở đầu trên Đồng Đình Hồ (thủ phủ xa xưa của tộc Bách Việt) khi
20 vạn Quân Hán thiện chiến tràn xuống từ vùng Hoàng Hà phải đối đầu với binh
lực của Công Chúa Phật Nguyệt - Nữ Tướng của vùng Hồ Đồng Đình (phía bắc Hồ Nam
ngày nay). 7 vạn quân Hán đã bị giết trong số 20 vạn quân xâm lược và khoảng
1000 trong 2000 chiến thuyền của giặc bị phá huỷ. Vị đô đốc chỉ huy của giặc
cũng bi giết.
Tại
Biển Đông năm +42, Đô Đốc Việt là Trần Quốc, một nữ tướng của Trưng Đại Đế đã đánh
bại hoàn toàn hạm đội Hán. Đô Đốc Hán là Đoàn Chí bị giết.
Ngoài
ra, khi Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam ra quân, đã có Nữ Tướng Lê Chân người Hải
Dương đem theo cả một đội chiến thuyền phụng mệnh.
Công
Chúa Nguyễn thánh Thiên, trước khi về với Đức Đại Đế, cũng có quân riêng và đã
từng đánh bại quân Tô Định.
Bà
Lê Hoa có nhiều chiến khu tại vùng Nga Sơn, Thanh Hóa.
Bà
Trần vĩnh Huy khởi binh từ Cổ Châu, gần Hà Nội ngày nay.
Công
Chúa Lĩnh Nam Sa Giang, Nữ Tướng vùng Trường Sa (phía nam Hồ Nam ngày nay).
Đại
Tướng Đồng Đình Công Đô Thiên - Quảng Tây
Liệt
Nữ Trần thiếu Lan và nhiều vị anh hùng khác đã làm giặc phương Bắc ăn ngủ không
yên trước khị liên kết với Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.
Với cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trên một địa bàn rộng lớn
như thế, cùng với những chiến công hiển hách như vậy sao Dân Ta chỉ gọi là Hai
Bà Trưng như Sử Giặc Tàu viết.
Để ít nhất tương đương với nhà Đông Hán lúc đó
là Quang Vũ Đế, các Tướng vùng khắp nơi trên lãnh thổ Bách Việt từ Hồ Đồng Đình
đến Rặng Ngũ Lĩnh vào tận đến vùng Sông Hồng hẳn sẽ phải tôn vinh Ngài là
Trưng Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.
Sau
khi giặc Hán đại bại vào năm +40, suốt 3 năm chưa dám phục thù. Cuối cùng nhà
Hán sai tướng Mã Viện kéo rốc toàn bộ binh lực của Hán Vũ Đế lần lượt chiếm lại
các thành. Quân dân Bách Việt đã anh dũng sống mái một trận cuối cùng xả thân
vì nền độc lập của Non Sông. Ít nhất 162 Nữ Tướng Anh Hùng còn lưu danh muôn
thuở và còn đền thờ cho đến tận ngày nay. Các Ngài đã nằm xuống vì sự trường
tồn của nòi giống Tiên Rồng Bách Việt.
Ngay
sau đó, từ năm +43, chúng áp đặt chế độ nô lệ hà khắc trên Dân Tộc ta suốt một
ngàn năm, thời gian dài dằng dặc tăm tối trong kiếp nô lệ giặc Phương Bắc.
Chính trong thời kỳ này, Giặc Tàu cố gắng đồng hóa Dân Tộc ta bằng tất cả mọi
thủ đoạn:
“Giặc Tàu xuyên tạc Lịch Sử Việt,
Giặc Tàu xuyên tạc Nguồn Gốc Tộc Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt 4000 năm Tiền Sử Tộc Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt Truyền Thuyết Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt Lãnh Thổ Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt Văn Minh Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt Kiến Trúc và Kỹ Thuật Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt Chữ Viết của Tộc Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt Biểu Tượng Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt học thuyết Đạo và Đức của Tộc Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt thuyết Âm Dương Ngũ Hành của Tộc Việt,
Giặc Tàu chiếm đoạt Danh Dự và Vinh Quang của Tộc Việt”
(website:danhgiactau)
Trong
suốt 1000 năm đó, Giặc Tàu đã hoàn chỉnh thêm chữ Việt (bao gồm cả chữ tượng
thanh và tượng hình), hệ thống hóa và gọi là chữ “Hán” và bắt Dân ta học loại
chữ này (Giống như hiện nay VC bắt học sinh học chữ Bùi Hèn vậy). Giới thượng
lưu Việt dùng chữ “Hán” trong giao tiếp với bọn cai trị, nhưng vẫn tiếp tục giữ
chữ Nam, chữ riêng của người Nước Nam, nhưng nói trại ra là chữ Nôm. Trong
chữ Nôm có ghi được cả cách phát âm rất đặc thù của người Việt là có cả tượng
hình và tượng thanh khác xa với chữ Hán.
Cha
Ông chúng ta tiếp tục dùng chữ Nôm sau khi Ngô Vương Quyển dành độc lập và Chữ
Nôm đã phát triển cao độ trong các thời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê với
những áng văn tuyệt tác của Truyện Kiều - Nguyễn Du, những tác phẩm của Bà
Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương…v..v… Đặc biệt Hoàng Đế Quang Trung đề cao văn
học chữ Nôm.
Ngày
nay, Hán Gian HCM, chúng còn theo lệnh “thiên triều” xóa chữ Quốc Ngữ hiện đại
mà Dân Việt đã xây dựng và hoàn thiện trong khoảng 400 năm nay nhằm tạo
cơ hội cho Dân Việt hoàn toàn “Độc Lập Văn Hóa”. Chúng muốn dân ta phải viết và
đọc như Hán, Mãn, Hồi, Mông, Tạng & Việt trong triều đại “thiên triều
Mao-Tập” để xóa sổ hoàn toàn ký ức lịch sử về nền “Cộng Hòa Liên Bang Bách
Việt” chủ nhân nền Văn Minh Lúa Nước Cổ Đại của các Vua
Hùng và hậu duệ Trưng Nữ Vương trên toàn cõi Trung Nguyên và Việt Nam
hiện nay.
Trong
chiều hướng Hán Hóa của Giặc Tàu, thời nào cũng vậy, nếu không xóa được các
chiến tích Việt, thì “Thiên Triều” cũng cố gắng hạ thấp các chiến tích hay
chuyển hóa các mục tiêu của chiến tích.
Bây
giờ, thì chúng ta có thể hiểu tại sao Sử Việt (do Tàu viết) được xử dụng dưới
thời 150 năm Triều Nguyễn (Gia Long) lại có những bài sử ngắn gọn
như “Hai Bà Trưng”, thực tế là Trưng Đại Đế Đồng Đình Lĩnh
Nam hoặc “Bà Triệu Ẩu” (có tính nhục mạ) thực tế là
Nữ Anh Thư Triệu thị Trinh …v.v…
Ngày nay, chúng ta cũng không nên dựa theo sử
Tàu mà gọi vi Nữ Anh Hùng có một không hai trên thế giới cổ kim đơn giản là Hai
Bà Trưng mà nên gọi Ngài là Trưng Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.
Với dòng lịch sử oai hùng như vậy của Trưng
Đại Đế, TT Trump đã nhắc đến công lao “Hai Bà” trong chuyến viếng thăm VN tại
Đà Nẵng năm 2018 như một lời nhắc nhở thâm thuý: Không ai cho chúng ta Độc Lập,
mà phải tự giành lấy Độc Lập như “Hai Bà” đã làm từ năm 40 đầu Công
Nguyên.
Lời nhắc nhở này, người Việt chúng ta cảm thấy
“nhục” hơn là hãnh diện khi Đại Họa Mất Nước đã gần hoàn tất dưới triều đại của
Hán Gian Cộng Sản Hồ Chí Minh.
Ghi
chú:
1--Động Đình Hồ hay Đồng Đình Hồ
20210317 CDTL 03Động Đình Hồ là địa danh chúng ta thường nghe.
Đây chính là nơi Tổ Tiên chúng ta xuất hiện cách đây gần 5000 năm . Vùng này
xưa kia rộng lớn như Biển Hồ ở phía Nam bờ sông Dương Tử. Hệ thống Hồ chằng
chịt nối kết với sông Dương Tử. Do đó người Việt rất giỏi về bơi lội lặn sâu,
nghĩa là có khả năng vùng vẫy dưới nước như Rồng. Khoảng giữa hồ có nhiều núi
và nhiều hang động như trong cảnh giới cõi tiên.
Đây chính là nơi Mẹ Âu Cơ ngự trị. Bởi vậy truyền thuyết Dân Tộc ta là con Rồng cháu Tiên, tức là một sự kết hợp kỳ diệu của con người trong cảnh giới tuyệt vời của Nước và Non, của dũng mãnh và dịu dàng. Do đó Dân Tộc Việt chúng ta cũng gọi Quê Hương là Đất Nước.
20210317 CDTL 04Nhưng
theo sự nghiên cứu về chữ Việt cổ thì lại gọi là Đồng Đình Hồ. Đồng là cùng,
chung nhau. Đình là triều đình là bàn việc nước. Vậy Hồ Đồng Đình có núi non có
nhiều hang động như là nơi Tiên Cảnh, Tổ Tiên ta xuất phát từ đây nên cũng dùng
nơi này để cùng nhau bàn việc nước.
2--Tại
sao chúng ta lại gọi mình là người Kinh.
Tổ
tiên chúng ta xuất phát từ vùng Đồng Đình Hồ, những nơi nước không sâu có loại
cỏ Kinh mọc san sát cao hơn đầu người. Trong những cuộc chiến chống quân xâm
lược, tổ tiên chúng ta thường dùng nơi này làm chiến khu hay trận địa chiến.
Người Việt đã chế ra một loại vũ khí có cán dài, trên đầu có bọc sắt nhọn
và cũng ngay gần đầu có làm cái móc câu liêm. Trong đám cỏ Kinh
rậm rạp này, chiến binh Việt dễ ẩn núp và khi gặp giặc tiến công thường
cưỡi ngựa thì chiến binh Việt dùng vũ khí này móc cho ngựa quỵ xuống rồi cũng
dùng mũi nhọn để đâm địch thủ.
Vùng
Đồng Đình có nhiều cỏ Kinh nên người Việt gọi nhau là người gốc Kinh. Chữ để
chỉ người Việt của thời kỳ này và tại vùng Đồng Đình có hình cái
"Vũ Khí - Qua" như vừa diễn tả.
Ngày
nay, giặc Hán lại có mưu sâu thành lập hội “Tộc Kinh” tại Châu Âu để gây tranh
cãi và phân hóa Cộng Đồng VN Hải Ngoại, (Có lẽ đó chính là “tộc kinh quốc doanh
của TC”).
3--Cũng
có sách chỉ ra rằng:
Sở
dĩ Sử Tàu gọi Hai Bà là Trưng Trắc & Trưng Nhị là có ý miệt thị:
Trưng Trắc là Trưng phản trắc và Trưng Nhị là Trưng hai lòng. Có lẽ cũng tương
tự như chúng gọi Nữ Anh Thư Triệu thị Trinh là Triệu Ẩu
là có ý khinh miệt.
4--Sở
dĩ ngày nay sau 1000 năm nô lệ chúng ta còn biết đến công trạng của
Trưng Đại Đế và đặc biệt công đức của 162 Nữ Đại
Tướng (danh hiệu Công Chúa) là nhờ đền thờ của các vị mà tộc Việt
khắp nơi trên lãnh thổ Trung Hoa vẫn còn gìn giữ tôn thờ. Ngay cả các
triều đại vua chúa của ta thời Đinh Lê Lý Trần hoặc đích thân
hoặc các phái đoàn ngoại giao đều ghé đền Trưng Đại Đế
tại Đồng Đình Hồ để thắp nhang kính viếng.
5--Theo
GS Trần Đại Sỹ, Tộc việt chúng ta khi giao tranh trên bộ có trận thắng
trận thua. Nhưng giao tranh hải chiến giữa Tàu & Việt, Tộc Việt luôn toàn
thắng. Ngoại trừ trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974. VNCH bị khóa tay chân. Tuy vậy
sự thiệt hại đôi bên là rất chênh lệch. VNCH mất một vị Hạm Trưởng, Trung
Cộng mất 3 vị Hạm Trưởng và nhiều sĩ quan. Trận Gạc Ma năm 1988 giữa VC
và Tàu Cộng không được gọi là trận Hải Chiến vì Hải Quân
Quân Đội Nhân Dân VN bị tướng Lê Đức Anh, bộ trưởng Quốc Phòng VC
lúc đó ra lệnh binh sĩ cấm nổ súng, đứng làm bia thịt cho những tràng
súng liên thanh đốn ngã.
6--Lạc
Việt, kẻ hậu sinh có điều chi sơ sót, xin chỉ giáo.
Trân
trọng,
Lạc Việt
Tài liệu tham khảo:
1--website www.danhgiactau.com
2--Bài trả lời phỏng vấn Ông GS Trần Đại Sĩ
3—Website www.daotienthanh.org
4- Cội Nguồn Việt Tộc - Phạm Trần Anh)
20210321 Bien Gioi Viet Co
https://lamhongs.wordpress.com/2016/01/04/dia-gioi-nuoc-viet-thoi-hai-ba-trung/
Biên Giới Việt Cổ
Sách Lĩnh
Nam Chích quái liệt truyện- Truyện Hồng Bàng ghi: “Nhà nước
Văn Lang: Đông giáp Nam Hải (nay là Quảng Đông- Trung Quốc) Tây giáp Ba Thục
(Tứ Xuyên- Trung Quốc) Bắc đến Động Đình Hồ (nay thuộc Tỉnh Hồ Nam Trung Quốc)
Nam đến nước Hồ Tôn (Chiêm Thành).
Theo sách Những khám phá
mới, nhận thức mới về Nguồn gốc dân tộc Việt và nền Văn minh Việt cổ.
Giáo sư, Bác sĩ Trần Đại Sỹ (Trường
Y khoa Arma-Paris, Giám đốc Trung Quốc sự vụ Viện Pháp- Á) dịp khai giảng niên
khoá 1991- 1992 tại Viện Pháp- Á đã công bố nghiên cứu khoa học của ông bằng cổ
sử, triết học, khảo sát địa lý, di tích các vùng trên tại Trung Quốc,
và hệ thống ADN, Trần Đại Sỹ xác định biên giới cổ của Việt Nam đúng
như Truyện Hồng Bàng.
Trần Đại Sỹ đã du ngoạn Động Đình Hồ
cái nôi của Việt tộc. Ông đã xác định ADN huyết thống Việt tộc tại vùng Động
Đình Hồ và hùng hồn tuyên bố:
– Cho tới Bắc thuộc lần I, từ phía
Nam sông Dương Tử xuống là vùng đất cư trú của cư dân Bách Việt, không cùng hệ
thống ADN với người Trung Quốc.
Công trình khoa học về hệ thống AND
của Trần Đại Sỹ đã kết thúc cuộc tranh cãi chín mươi năm qua về biên giới cổ
của Việt Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt Nam bằng ADN đảo ngược tất cả
các thuyết từ trước đến nay cho rằng “Người Việt do người Hoa di cư xuống để
trốn lạnh, để tỵ nạn..”
Thực tế ADN khẳng định:
“Chính người Việt tộc vùng Đông Nam
Á đã đi lên phương Bắc để thành người Hoa”
Giáo sư, bác sĩ Trần Đại Sĩ nói:
– Tôi may mắn biết chừng nào, về
công cuộc đi tìm lại biên giới cổ và nguồn gốc tộc Việt. Quí vị sẽ thấy rằng tộc
Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho. Người
Việt cổ có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Sang đầu thế kỷ thứ nhất, nổ ra
cuộc khởi nghĩa của một phụ nữ và một trăm sáu mươi hai anh hùng, trong đó có
hơn trăm là nữ. Cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, đuổi ngoại xâm Trung Hoa, lập nên
triều đình Lĩnh Nam. Nối tiếp các thời đại sau đều có tinh thần bất khuất để
tạo thành niềm tin vững chắc. Tộc Việt đã chiến đấu không ngừng để chống cuộc
Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của người Hoa. Bất cứ thời nào, người
Việt dù bị phân hoá đến đâu, nhưng khi đất nước bị ngoại xâm, họ lập tức ngồi
lại với nhau để bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt Nam,
hễ ai dựa theo chủ đạo tộc Việt, họ đều thành công trong việc cai trị dân. Việt
Nam nay đang trên đà phục hưng chủ đạo tộc Việt.
Tôi đi tìm nguồn gốc tộc Việt nhiều
nhất bằng phương pháp y khoa, dùng biện chứng y khoa vào khảo cổ. Nước tôi có
một tôn giáo mà toàn dân đều theo, đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền
thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn gia phả kể sự tích các ngài. Theo thời
gian, tiểu sử các ngài được dân chúng huyền thoại hoá, nên dù là huyền sử cũng
có chứng tích con người thật và khảo cổ học đã trả lời chính xác. Chúng tôi
dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những người đang
sống của ba mươi lăm dòng họ tại Hoa Nam, những dòng họ khác tại Hoa Bắc. Lại
cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian.
Cuối cùng chúng tôi tìm ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam, với
những tộc Hoa Bắc và kết luận: “Lãnh thổ Văn Lang tới Hồ Động Đình”.
Cổ sử nói rằng trong cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng khi Trưng Nhị, Trần Năng, Phật Nguyệt, Lại Thế Cường, Trần
Thiếu Lan đem quân đánh Trường Sa năm 39, thì nữ tướng Trần Thiếu Lan tử trận,
mộ chôn ở ghềnh Thẩm Giang (sự thật là Tương Giang thông với Hồ Động Đình). Năm
42 có trận đánh giữa Lĩnh Nam và Hán. Tướng Lĩnh Nam Tổng trấn Hồ Động Đình là
Phật Nguyệt, tướng Hán là Mã Viện, Lưu Long. Sau năm 42 ba thống lĩnh kỵ binh
của Bà Trưng là Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống, Đào Tam Lang, đánh nhau với quân
Hán tại Bồ Lăng thuộc Tượng Quận vùng Ba Thục (Tứ Xuyên).
Theo ánh sáng cổ sử và huyền thoại,
cuối năm 1980 tôi bay đi Bắc Kinh, rồi đi Trường Sa là thủ phủ của tỉnh Hồ Nam.
Tất cả các di tích của Việt tộc như Hồ Động Đình, núi Tam Sơn, núi Ngũ Lĩnh,
Sông Tương, Thiên Đài, cánh đồng Tương đều nằm ở tỉnh này. Tôi đi tìm núi Ngũ
Lĩnh không khó nhọc. Tôi thấy ngay đó là năm dãy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc
Trung Quốc hiện nay. Lập tức tôi thuê xe đi vòng quanh năm núi này. Tôi đi mất
mười ngày, trải gần mười lăm ngàn cây số.
Tôi đi thăm ngọn Thiên Đài, chia lãnh thổ Lĩnh Bắc tức Trung Quốc, Lĩnh Nam tức Đại Việt. Ngọn đồi nhỏ cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói, nhiều chỗ bị khuyết, tường mất hết vữa, lún sâu. Duy cổng và nền bằng đá vẫn còn nguyên, cột kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Những câu đối, chữ còn, chữ mất.
Trường Sa
28°13'29.01"Bắc 112°56'20.65"Đông
Tuong Giang
28°16'12.57"Bắc 112°57'33.82"Đông
Tại Thư Viện Hồ Nam, tôi tìm được
một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, chữ viết như phượng múa, rồng bay. Đầu đề
ghi Thiên Đài di sự lục do tiến sĩ Chu Minh Văn soạn, niên
hiệu vua Đường Thái Tông năm 627. Sách được chép lại vào đời Thanh Khang Hy.
Tôi đọc sách nhắc lại việc vua Đế
Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc Tục.
Thái tử Lộc Tục lên ngôi hiệu là
Kinh Dương (năm Nhâm Tuất 2789 TCN). Sau người Việt lấy năm này là kỷ nguyên
lập quốc. Tôi cộng cho đến năm 1991 tôi đến đền này là 4870 năm vì vậy người
Việt tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn hiến.
Kinh Dương đặt tên nước là Xích Quỉ,
đóng đô ở Phong Châu nay là Phú Thọ. Vua Kinh Dương lấy con gái vua Động Đình
là Long Nữ đẻ ra thái tử Sùng Lãm. Sùng Lãm lên ngôi hiệu là Lạc Long Quân, đổi
tên nước là Văn Lang. Nước Văn Lang Bắc tới Hồ động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn,
Tây giáp Ba Thục, Đông giáp biển Đông Hải trong huyền thoại Việt Nam là có
thật. Miếu thờ hai vua Đế Minh và Kinh Dương, tổ tông Việt tộc còn đây, hoang
tàn đổ nát, không người phụng thờ hương khói. Đau xé lòng con cháu Việt tộc mấy
ngàn năm.
Tôi chép một đoạn sách Thiên
Đài di sự lục làm tin:
“Cổ thời đỉnh núi có Thiên Đài thờ
vua Đế Minh, vua Kinh Dương. Thời Đông Hán có một tướng của vua Bà tên là Đào
Hiển Hiệu được lệnh rút khỏi Trường Sa. Khi rút tới Quế Dương ông cùng nghìn
quân lên Thiên Đài lễ, nghe người đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất
định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi.”
Tôi biết vua Bà là vua Trưng. Tướng
Đào Hiển Hiệu là em con chú của Bắc Bình Vương Đào Kỳ lĩnh chức Đại Tư Mã thời
vua Trưng. Còn tướng Đào Hiển Hiệu tước phong quốc công, giữ chức Hổ Nha đại
tướng quân. Nữ tướng Hoàng Thiếu Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường Sa, Hồ
Động Đình, đã sai Hiển Hiệu đi cản trận, đóng rút chặn ở Thiên Đài, đợi quân
Lĩnh Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di
tích thời Quốc Tổ, Quốc Mẫu, đã không chịu lui quân, tử chiến với quân Hán trên
mảnh đất Thiêng của Tổ Tiên Việt tộc.
Nơi đền cổ hoang nát Thiên Đài còn
đôi câu đối khắc vào đá:
Thiên Đài đại đại phân Nam Bắc
Địa lĩnh niên niên dữ Việt Thường
Nghĩa là:
Từ sau lễ vua Đế Minh tế cáo ở đây,
đài thành Thiên Đài, biết bao đời phân ra Nam, Bắc.
Núi Ngũ Lĩnh năm này qua năm khác
với giòng giống Việt Thường.
Nơi bệ thờ Đào Hiển Hiệu có đôi câu
đối:
Nhất kiếm Nam Hồ kinh Vũ Đế
Thiên đao Bắc Lĩnh trấn Lưu Long
Nghĩa là:
Một kiếm đánh trận ở phía Nam Hồ
Động Đình làm kinh tâm vua Quang Vũ nhà Hán. Ý chỉ nữ tướng Phật Nguyệt đánh
bại Mã Viện ở phía Nam Hồ Động Đình. Một nghìn tàu đao do Hiển Hiệu thủ ở Bắc
núi Ngũ Lĩnh trấn Lưu Long.
Như vậy là tôi đã tìm được di tích
Tổ tông Việt tộc đã ghi trong cổ sử và huyền thoại. Vua Đế Minh tế cáo Trời Đất
trên vùng núi Ngũ Lĩnh là có thật. Và vì có Thiên Đài thiêng của Việt tộc, nên
thời Lĩnh Nam của vua Trưng mới có trận Hồ Động Đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ
lãnh địa thời vua Trưng cũng như Văn Lang xưa tới Ngũ Lĩnh, Hồ Động Đình. Vua
Trưng đã thu được sáu mươi lăm thành rộng lớn tới núi Ngũ Lĩnh là chiến công
hiển hách huy hoàng của quân và dân triều đình Lĩnh Nam, làm cho mỗi chúng ta
kinh ngạc.
Trong những năm 1979- 1989 tôi dẫn
phái đoàn Uỷ ban y học Pháp đi trao đổi tại các tỉnh Phú Xuyên, Quảng Đông,
Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu tôi thấy các tỉnh này ít nhiều đều có đạo thờ vua
Bà. Tôi ghi chú được hàng trăm ngôi đền. Một cuốn phổ soạn chép sự tích nứ
tướng Phật Nguyệt, có đôi câu đối:
Tích trù Động đình uy trấn Hán
Tên còn trong sử sức phù Trưng
Câu chuyện về giáo sư bác sĩ Trần
Đại Sỹ đã dày công sức, tài năng, tâm huyết đi vào những chi tiết huyền thoại,
huyền sử, cổ sử, cùng triết học, tin học, y học, khảo cổ để tìm về nguồn gốc
dân tộc Việt Nam, quả là một hiện tượng phi phàm, đầy thuyết phục khoa học.
Không còn nghi ngờ. Không bàn cãi được.
Qua nhiều tài liệu xa xưa, của các
vị quan Việt Nam đi sứ sang Trung Quốc, họ đã thắp hương trong những đền thờ
Hai Bà Trưng ở Hồ Nam Trung Quốc. Nhiều vị sáng tác thơ gửi lại.
Tiến sĩ Nguyễn Thực (1544- 1637)
người ở làng Vân Điền (tên Nôm gọi là làng Đóm) xã Vân Hà, huyện Đông Anh. Ông
thi đỗ tiến sĩ đệ nhị giáp (Hoàng Giáp) khoa thi đình đầu tiên thời Lê Trung
Hưng (1595) mở tại Thăng Long. Ông được cử làm sứ thần Việt Nam đi Trung Quốc,
thời gian này ông có làm một số bài thơ, sau bị thất lạc. Mãi đến thế kỷ XVIII,
Lê Quí Đôn sưu tầm được mười bài, có bốn bài làm trong thời gian đi trên đường
đi sứ về. Trong bốn bài đó, có một bài ông nói về Đền thờ Hai Bà Trưng ở phía
Nam dãy núi Ngũ Lĩnh.
Nam Hoài Chỉ Ngũ Lĩnh
Ngũ Lĩnh điêu nghiêu trấn Việt thuỷ
Hứa đa cảnh trí chiếm thanh kỳ
Uất thông, đông hậu thuỳ thiên cán
Nùng diễm xuân tiền mai nhất chi
Đồng trụ Trưng Vương lưu cựu tích
Thạch Nhai Trưng tướng phục tùng trì
Phong cương đại cổ phần trung ngoại
Thậm tiễn thiên công xảo thiết thơ.
Dịch nghĩa:
Về Nam đến rặng núi Ngũ Lĩnh
Ngũ Lĩnh chất ngất trấn ở vùng biên
cương đất Việt
Biết bao cảnh trí tươi tắn lạ kỳ
Sau mùa đông ngàn cây tùng xanh um
Tươi mùa xuân một cành mai diễm lệ
Cột đồng còn lưu dấu cũ Trưng Vương
Đường đá nghiêng nghiêng bên ngôi
đền Trưng Vương
Chốn biên cương từ xưa phân rõ trong
ngoài
Rất phục thợ trời sao khéo đặt hang.
Hai thế kỷ sau. Ngô Thì Nhậm (1746-
1803) được cử đi sứ nhà Thanh, có nhắc lại cụ thể là năm 1783, ông sáng tác một
tập thơ có hình vẽ Hoàng Hoa đồ phả, trong đó có bài Phân Mao Lĩnh (Núi Phân
Mao)
Nhất đới thanh sơn Sở, Việt giao
Hoàng Mao dịch lộ nhận Phân Mao
Thiên thu bất tận Hành Sơn Lĩnh
Địa khí hoành phù Nhạn Trạch Mao
Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ
Uy Đà quế để lạc sơn sào
Phong lai giải uẩn tay nam lợi
Vị ứng hùng bi vạn nhận cao
Dịch nghĩa:
Một giải núi xanh ở nơi giáp
với Sở và Việt
Trên đường đến trạm hoàng mai nhận
ra đó là núi Phân Mao
(Ranh giới Trung Hoa là do sách Trời
đưa ra không quá núi Hành Sơn) (*)
Khi đất làm trôi ngược lông chim
nhạn ô nhạn trạch (về phía Nam)
Lưỡi kiếm của Bà Trưng mở ra động phủ
Sân quế của Triệu Đà còn đầy trong
hang núi
Gió từ Tây Nam làm nguôi cơn nồng
Coi thường núi Hùng bi dù cao tới
muôn sải (**)
Ngô Thì Nhậm chú thích:
(*) “Núi Phân Mao ở địa giới Hành
Sơn, tỉnh Hồ Nam, ở đây có cỏ mao, rẽ hai ngả Nam Bắc, trên đường đi có biểu đồ
Phân Mao Lĩnh”.
(**) “Sách cũ ghi rõ khi Mã Viện
thắng lợi đã bắt hơn ba trăm tướng lĩnh cừ khôi người Việt của Hai Bà Trưng đưa
về Linh Lăng ở phần đất phía Nam tỉnh Hồ Nam”.
Hùng Bi là một dãy núi ở huyện Kỳ
Dương, vùng cực Nam tỉnh Hồ Nam.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng thu lại 65
thành từ Nam sông Dương Tử đến Giao Chỉ
Di tích, chứng tích về cuộc chiến
của Hai Bà chống giặc Hán còn muôn thuở linh thiêng tại nhiều nơi trên vùng đất
Lĩnh Nam của Lạc tướng Hùng Định.
Miếu thờ thần Quản Mã, Quản Tượng là
những người huấn luyện voi ngựa cho Hai Bà và các tướng tại Khoang Mục, cách Cổ
Lôi khoảng ba cây số. Xung quang Khoang Mục là bãi cỏ non rộng ngút ngàn, dâng
thức ăn cho trâu bò, voi, ngựa.
Quán Ao Sen trước cửa đền Hạ Lôi
(Thạch Thất- Hà Nội) thờ gia đình Hai Bà Trưng, có một ao trồng sen rộng khoảng
vài mẫu gọi là Ao Sen. Xung quanh Quán Ao Sen có ba cây đa cổ thụ cao vút trời
xanh, theo thế tam gíac.
Dân làng truyền nhau chuyện “Nồi da
xáo thịt”:
– Thời Lĩnh Nam, tuy
có nhiều quặng, đồng trong vùng, song phải dùng đúc vũ khí,
chiêng, trống, loa, cồng, nên rất thiếu vạc đồng loại to để làm bếp nuôi quân.
Nhân dân giết trâu bò, gỡ lấy thịt, còn da trâu căng rộng ra, nối vào rễ
phụ của ba cây đa, đứng theo thế chân kiềng bắc bếp, làm nên chiếc vạc lớn, đem
thịt chất lên vạc bằng da đó, chất củi đun thịt chín trong vạc da. Từ đó có
thành ngữ “Nồi da nấu thịt”, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Tại một bản Mường giáp ranh
giữa hai huyện Lương Sơn và Thạch Thất còn di tích Làng Nam Giao, có nơi Hai Bà
Trưng lập Đàn Nam Giao cúng tế Trời Đất. Sau khi đuổi sạch quân Đông Hán, Bà
Trưng Trắc được suy tôn làm Hoàng Đế Cõi Lĩnh Nam, lễ đăng quang được cử hành
trọng thể. Hoàng Đế Lĩnh Nam trong triều phục khăn áo vàng, cùng triều đình tới
Đàn Nam Giao đã đắp sẵn, để tế lễ và tạ ơn Trời Đất và các tiên vương dòng
Hùng.
Trong vùng Cổ Lôi Trang, cánh đồng
phì nhiêu có miếu Quan Hoàng thờ Quan Hoàng Ba, đọc kiêng huý là ông Hoàng Bơ,
em trai và là vị huân thần dũng tướng của Hai Bà Trưng. Ông Hoàng Bơ thường hoá
thân hiển hách trong giá đồng thờ Mẫu. Bà Bát Nàn, tướng quân Vũ Trinh Thục của
Hai Bà Trưng được tôn làm “Bà Chúa Thượng Ngàn” trong Tứ phủ công đồng Đạo Mẫu.
Sinh thời bà được Hoàng đế Lĩnh Nam trao quyền thống quản mười tám cửa rừng từ
Bạch Hạc xuống tới đèo Ba Dội.
Sử sách xác nhận thời Hai Bà Trưng
khởi nghĩa, nước ta vẫn còn là Lĩnh Nam thuộc thời kỳ Văn Lang- Bách Việt. Lãnh
thổ Lĩnh Nam Bách Việt cũ trước và thời Hai Bà Trưng gồm vùng Động Đình Hồ nay
thuộc tỉnh Hồ Nam Trung Quốc gọi là đất Dương Việt. Địa bàn của người Bách Việt
ở phía Nam sông Dương Tử (từ núi Ngũ Lĩnh) đến Hà Tĩnh ngày nay.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã thu lại
được sáu mươi lăm thành từ Nam sông Dương Tử đến Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc
vùng đất miền Bắc nước ta hiện nay.
Gần hai nghìn năm lịch sử biến
thiên, con cháu Việt tộc dò những bước chân, soi kính khoa học hiện đại, vẽ lại
bản đồ non nước Lĩnh Nam, càng sáng rõ hơn về khí phách oai hùng và chiến công
đánh giặc ngoại xâm của Hai Bà Trưng thuộc tầm nhân loại. Người dân Việt đời
này sang đời khác tôn thờ Hai Bà trong thế giới tâm linh hiển sáng. Sức mạnh
tâm linh đó đang truyền cho thời đại chúng ta.
Đền Hai Bà Trưng Cổ Lôi
Thờ chiến thắng lấy lại Biên giới
Việt cổ
Thăng Long- Hà Nội tháng 4- 2012.
Tôi đọc sách cổ, luôn bị ám ảnh về chuyện “Hai Bà Trưng về đền Hát Môn
báo mộng cho vua Lý Anh Tông, xin xây đền ở Hương Cổ Lai. Vua đã xây đền Cổ
Lai”.
Câu chuyện hư ảo, mang màu sắc u
linh, thần thánh, linh thiêng, mà ngôi đền Cổ Lai thì có thực. Cổ Lai thơm
hương khói mấy nghìn năm nay trên đất làng Việt Nam mà đức vua Lý làm theo giấc
mơ linh ứng là có thật.
Đền Cổ Lai ở đâu?
Thế rồi, linh thiêng làm sao. Ngày
Lễ Phục Sinh 2012, tôi được về thắp nén tâm nhang tại ngôi đền Cổ Lai cổ xưa do
vua Lý Anh Tông xây, theo giấc mộng gặp Hai Bà Trưng.
Ngôi đền linh thiêng huyền diệu Cổ
Lai nay mang tên Đền thờ Hai Bà Trưng ngự ngay trong thôn Hạ
Lôi, xã Mê Linh thành phố Hà Nội.
Tôi hỏi ông từ trông đền:
– Thưa cụ, đây có phải là Đền Cổ Lai
ở Hương Cổ Lai xưa không?
– Vâng. Đất này là Cổ Lôi Trang, là
Hương Cổ Lai của gia đình Lạc tướng Hùng Định. Ngôi đền thờ này được xây trên
nền đất ngôi nhà của Hai Bà thuở trước. Đây chính là Đền Cổ Lai.
Tôi rưng rưng linh cảm, linh nghiệm
từng bước đi may mắn của mình, bất ngờ về tìm lại Cổ Lôi Trang. Thắp nén hương
lòng trong hậu cung, trước hai pho tượng Hai vua Bà linh hiển của Lĩnh Nam, đặt
tay trên hoa văn mặt Trống Đồng được thờ trang nghiêm trước tượng Hai Bà, tôi
thầm khấn nguyện:
– Xin anh linh Hai vua Bà trở về cứu
con cháu, phù hộ độ trì cho chúng con giữ trọn đạo Việt, trung hiếu nghĩa nhân
quả cảm, thông thái và minh triết của các vua Hùng, vững lòng trước cuồng
phong, bão tố để giữ gìn non sông gấm vóc Việt Nam, gọi an vui trở về trong mỗi
tâm hồn Việt Nam hiện đại.
Bâng khuâng, xao xuyến trước khung
cảnh đền Cổ Lai nghìn năm xưa, nay khang trang bề thế, một không gian trên mười
hai ha, thơm hương khói. Ngôi Tam toà chính điện cổ được bảo tồn nguyên vẹn.
Hai bên tả hữu có nhà thờ thân phụ, thân mẫu sư phụ, sư mẫu của Hai Bà, nhà thờ
Thi Sách và thân phụ, thân mẫu, nhà thờ các nam tướng, nữ tướng.
Dưới gốc cây muỗm cổ thụ nở hoa
trắng li ti, toả hương mát dịu chúng tôi lặng nghe ông từ kể chuyện triều đình
Trưng Vương:
“Lĩnh Nam riêng một triều đình nước
ta/ Thưởng công tướng lính, tạ lòng dân/ Ơn cha mẹ ơn chồng/ Thương dân giảm
thuế, chăm lo cấy trồng/ Một lòng phụng sự non sông/ Chăm lo xây dựng triều
đình nhân văn”.
Cổ Lôi Trang thiêng liêng! Cổ Lôi
Trang hùng khí nay trở thành cánh đồng Hoa Hồng. Cánh đồng Hoa Hồng bạt ngàn
hoa. Hoa Hồng của Hai Bà Trưng dâng tặng dân làng Cổ Lôi Trang. Hoa Hồng Cổ Lôi
Trang thơm hương đằm thắm nghĩa vợ, tình chồng, tình non nước, vua Bà Lĩnh Nam
dâng tặng non sông Việt Nam.
Linh thiêng thay!
HàNội Tàn Thu 2013.
No comments:
Post a Comment