Monday, January 30, 2017

20170130 Án Sử Núi Đất 1509

20170130 Án Sử Núi Đất 1509

Án Sử Núi Đất 1509

Bách Việt Nhân
Cuộc chiến tại Núi Đất 1509 trong năm 1984 cho đến nay vẩn còn để lại nhiều nghi vấn và hệ-lụy cho dân tộc Việt-Nam vì những mất mát cuả vùng lãnh thổ trong yếu nầy. 

Đây là cao điểm giửa Hà-Giang và Lào-Cay, một khi chiếm ngự được cao điểm nầy TC có thể đặt những dàn phi đạn đe dọa cho cả Hà-Giang lẫn Lào-Cay và đó là mục đích tại sao TC quyết tâm chiếm cho được cao điểm nầy với những đơn vị sau đây đã tham gia trận chiến từ năm 1984 cho tới 1991:

Các sư đoàn 1th, 11th, 13th, 14th, 15th, 20th, 21th, 27th, 40th, 41th, 47th, 54th, 67th đã tham gia trong trận tiến chiếm Núi Đất 1509. 

Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 28 tháng 04 năm 1984 quân Trung Cộng đã hoàn toàn làm chủ tại mặt trận Núi Đất 1509 tức ngọn núi Lão-Sơn (Tàu gọi là Laoshan) cùng với trên 20 cao điểm khác về phiá Đông cuả cao điểm 662. 

Củng tại ngọn núi nầy Việt gian Hà-Nội đã bán đứng trên 3700 tử sĩ mà không chút tiếc thương.


AnSu_NuiDat_1509_ToaDo_LaoSon
Đi tìm tọa độ Núi Đất 1509_ngón tay chỉ trăng 05

Cuộc chiến tại Núi Đất 1509 trong năm 1984 cho đến nay vẩn còn để lại nhiều nghi vấn và hệ-lụy cho dân tộc Việt-Nam vì những mất mát cuả vùng lãnh thổ trong yếu nầy.
Đây là cao điểm giửa Hà-Giang và Lào-Cay, một khi chiếm ngự được cao điểm nầy TC có thể đặt những dàn phi đạn đe dọa cho cả Hà-Giang lẫn Lào-Cay và đó là mục đích tại sao TC quyết tâm chiếm cho được cao điểm nầy với những đơn vị sau đây đã tham gia trận chiến từ năm 1984 cho tới 1991:
Các sư đoàn 1th, 11th, 13th, 14th, 15th, 20th, 21th, 27th, 40th, 41th, 47th, 54th, 67th đã tham gia trong trận tiến chiếm Núi Đất 1509. 
Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 28 tháng 04 năm 1984 quân Trung Cộng đã hoàn toàn làm chủ tại mặt trận Núi Đất 1509 tức ngọn núi Lão-Sơn (Tàu gọi là Laoshan) cùng với trên 20 cao điểm khác về phiá Đông cuả cao điểm 662.
Củng tại ngọn núi nầy Việt gian Hà-Nội đã bán đứng trên 3700 tử sĩ mà không chút tiếc thương.



Cho đến hôm nay, đối với Việt Nhân, vẩn còn lại một số câu hỏi khó tìm ra giải đáp cho dù đã có những tài liệu được bạch hoá từ web site quốc phòng của Trung Cộng www.china-defese.com hay những forum nhưng câu hỏi lớn nhất được đặt ra vẫn là:
Bọn Việt gian Hà-Nội đã dâng bao nhiêu đất cho Trung Cộng sau những hiệp ước bí mật 1999-2000?
Đi tìm tài liệu từ phía bọn Việt gian Hà-Nội đã khó vì bọn chúng giử kín như bưng, đi tìm tài liệu từ phía bọn cướp đất Trung Cộng lại càng khó hơn vì sự gian-xảo, qủy-quyệt, dối-trá, lừa-lọc đã ăn sâu vào tâm thức bọn cướp nước Hán tộc nên sự chính xác chỉ tối đa là 30%.   
Vì thế Việt Nhân đã phải áp dụng phương pháp so sánh giửa những bản đồ cuả đại học Texas, bản đồ không ảnh Google, bản đồ nexus.net.
Để dễ dàng so sánh Việt Nhân có đính kèm theo các đơn vị đo khoảng cách từ chính các nguồn bản đồ đả kể trên.
Trong những bài viết về cuộc chiến Việt, Trung 1979-1991 Việt Nhân đã mang ra trình với làng, với nước bản đồ hành quân cuả cuộc chiến Núi Đất 1509 (Tàu gọi là Lão-Sơn_Laoshan) do chính các web cuả Việt gian Hà-Nội lẫn cuả Trung Cộng công bố.
Cũng chính từ bản đồ hành quân nầy lại tăng thêm nhiều nghi vấn về đường biên giới giửa hai nước vì đường biên giới giửa hai nước lại ngay trên các đỉnh núi, một đường biên giới thật kỳ lạ?!
Dưới đây là bản đồ hành quân cuả trận địa Núi Đất đã được công bố từ phiá bọn Việt gian lẫn Trung Cộng.

Vì bản đồ trên đã được thâu nhỏ lại rất khó xem vì thế Việt Nhân đã phải xác định lại những cao điểm bằng những khoanh mực đỏ cho bạn đọc dễ thấy hơn trong bản đồ trân địa dưới đây.





Câu hỏi được đặt ra là liệu bản đồ trận chiến nầy thật hay giả?
Độ chính xác bao nhiêu phần trăm?
Những cao điểm nầy có trên bản đồ hay không?
Nếu là bản đồ giả thì nó được tạo nên với mục đích gì?
Để tìm giải đáp cho các câu hỏi trên là phải đi tìm từ những bản đồ hành quân cuả thời đó để so sánh với bản đồ không ảnh hiện nay vì thế các bản đồ được chọn là:
-Bản đồ biên giới Việt-Nam, Trung Hoa cuả đại học Texas do Trung Cộng xuất bản từ những năm 1953-1954 và Trung Cộng thực hiện vì ý đồ chiếm đất, vì Hồ Chí Minh đã yêu cầu.
-Không ảnh Google Earth để kiểm chứng.
-Bản đồ hành quân thời chiến tranh Việt-Nam và Hoa-Kỳ trong những năm 1954-1975, củng do Trung Cộng cung cấp cho Hoa-Kỳ và bộ quốc phòng Hoa-Kỳ đã cập nhật trong năm 1967, trong bản đồ nầy có một số điểm hay địa danh đã không có như bản đồ cuả Trung Cộng thực hiện trong những năm 1953-1954.
Trong bản đồ dưới đây của đại học Texas, có 4 điểm đã được dùng xác định đường biên giới bằng khoảng cách để có thể so sánh với không ảnh Google hay bản đồ hành quân của Hoa-Kỳ, đó là:
1)Thanh Thủy cách biên giới ít nhất là 2 km.
2)Từ đỉnh núi Phương Độ đến biên giới gần nhất là 16 km.
3)Từ đỉnh Núi Tây Côn tới biên giới gần nhất là 8 km.
4)Vị trí Ma Lou Tang cách biên giới gần nhất 2 km.
Việt Nhân đã cố ý đi tìm cao điểm 1509 tức Núi Đất trong bản đồ cuả đai học Texas có khu vực trận chiến trong năm 1984 để so sánh với bản hành quân do phía Việt gian Hà-Nội và các web site cuả Trung Cộng bạch hoá nhưng không tìm thấy cao điểm nầy.
Các đơn vị đo lường: dặm anh (mile), Kilometers, và hải-lý được đính kèm dưới đây để qúy bạn đọc có thể tự mình kiểm chứng và so sánh.





Trong bản đồ dưới đây của Nexus, khi so sánh cùng với đại học Texas (TXU) vẩn không thay đổi mấy, ngoại trừ địa danh Ma-Lou-Tang có chút thay đổi vì từ Ma-Lou-Tang đến biên giới khoảng cách là 2km và như thế là Việt-Nam đã mất đất khi bản đồ được vẽ lại sau nầy trong năm 1967, dưới thời Hồ Chí Minh vẩn còn sống.
Bên trên là sự so sánh của hai bản đồ diện địa từ đại học texas (TXU) và bản đồ hành quân Nexus cho thấy có chút ít thay đổi tại Ma-Lou-Tang, mất đất gần 2km.

Dưới đây là không ảnh từ Google earth.
Khi quan sát kỷ sẽ thấy đường biên giới giửa hai nước Việt, Hoa đã bị lấn sâu vào biên giới Việt-Nam.
Rõ nét nhất là đoạn tại Núi Tây-Côn.
Đường biên giới vượt lên nằm ngay trên đỉnh núi và như trong hai bản đồ diện địa đã so sánh trước cho thấy khoảng cách từ đỉnh Núi Tây-Côn đến biên giới là 8km.
Việt-Nam mất 8km khoảng cách thẳng từ biên giới lên đỉnh núi.
Để cho rõ ràng hơn xin đính kèm bản đồ không ảnh dưới đây là ngọn Núi Tây-Côn với cả tọa độ và đường biên giới màu vàng vượt lên ngay trên đỉnh núi.
Việt gian Hà-Nội trả lời như thế nào về sự kiện mất đất nầy?
Sư đoàn 42 cuả quân đoàn 14 Côn-Minh trực thuộc quân khu Thành-Đô đã tiến chiếm núi Tây-Côn Lĩnh trong năm 1981.
Riêng tiểu đoàn 1 cuả trung đoàn 126 đã được phong cho biệt danh “tiểu đoàn Tây-Côn Lĩnh anh hùng”.
Để tìm hiểu Việt-Nam đã mất bao nhiêu đất, Việt Nhân đã dựa vào khoảng cách trong bản đồ diện điạ cuả đại học Texas (TXU) xuất bản năm 1953 do Trung-Hoa thực hiện để vẽ lại đường biên giới củ bằng đường biên giới bong-bóng vàng như thế qúy đọc giả sẽ thấy rõ-ràng tường-tận hơn là Hồ Chí Minh và bọn Việt gian Hà-Nội đã dâng bao nhiêu đất đai cho Trung Cộng.
Nên nhớ đây không phải là vùng đất duy nhất Việt-Nam đã bị mất.
Cho đến bây giờ chúng ta vẩn chưa tìm ra được cao điểm Núi Đất 1509.
Như vậy không lẽ cao điểm nầy không có thật?
Trong lúc đi tìm tài liệu viết bài cho “Án-Sử Đất Tụ-Long” Việt Nhân tình cờ đã tìm được cao điểm cuả Núi Đất 1509 trong bản đồ cuả đại học Texas.
Duy nhất chỉ có bản đồ nầy là có cao điểm 1509 mà không thể tìm thấy ở trong bản đồ khác, ngay cả trong bản đồ hành quân Nexus tái bản năm 1967 cuả bộ quốc phòng Hoa-Kỳ.
Tại sao phải là bản đồ cuả đại học Texas mà không phải là trên các bản đồ khác?
Vì bản đồ của đại học Texas (TXU) là bản đồ đầu tiên do Trung-Hoa thực hiện với ý đồ chiếm đất Việt-Nam nên trong bản đồ nầy có rất nhiều điểm mà chúng ta cần nghiên cứu kỷ.
Đặc biệt nhất là về địa danh, xin lưu ý với qúy đọc giả về điều nầy vì đây là phương pháp chiếm, lấn đất đai Việt-Nam một cách âm-thầm của Hán tộc. 
Việt Nhân sẽ giải thích về điều nầy sau.

Laoshan today.

Cao điểm Núi Đất nằm trong khu vực Pha-Long thuộc châu Thủy-Vĩ chứ không nằm trong châu Vị-Xuyên thuộc tỉnh Hà-Giang như mọi người lầm tưởng.
Châu Thủy-Vĩ nằm bên trái khu vực hai con Sông Đổ-Chú và Sông Chảy (thật ra hai con sông nầy chỉ là một vì Sông Đổ-Chú là thượng nguồn cuả con Sông Chảy).
 Đưới đây là cao điểm của Núi Đất 1509 thuộc khu vực Pha-Long trong phần bản đồ thuộc châu Thủy-Vĩ.
Khu vực màu xanh lá cây chính là cao điểm Núi Đất 1509.
Khu vực màu xanh dương là Pha-Long.
Khu vực màu đỏ chính là tổng Tụ-Long, còn gọi là mỏ đồng Tụ-Long.



Để qúy đọc giả có thể thấy rõ cao điểm 1509 hơn, hình trên đã được phóng đại.
Xin lưu-ý với qúy đọc giả vần đề nầy sẽ phải còn kiểm chứng lại, trừ phi bộ chính trị Việt gian Hà-Nội công bố chính thức tất cả những tọa độ đã lọt vào tay Trung Cộng.


Bản đồ không ảnh dưới đây cuả Google earth bao gồm cả tọa độ cao điểm Núi Đất 1509.





Cao điểm Núi Đất nhìn gần hơn gồm cả tọa độ.






Cao điểm Núi Đất được xoay dọc theo đường biên giới để cho qúy đọc giả có một độ nhìn chính xác hơn về khoảng cách. 





Bản đồ dưới đây là bản đồ hành quân cuả bộ quốc phòng Hoa-Kỳ tái xuất bản trong năm 1967 cho chúng ta thấy là không có cao điểm Núi Đất 1509.
Khu vực khoanh tròn màu vàng là khu vực Pha-Long, nghiã là Núi Đất nắm trong khu vực nầy nhưng thật sự không có trên bản đồ nầy.


Dưới đây là các đơn vị đo lường của bản đồ hành quân Nexus.
























VẤN ĐỀ ĐỊA DANH
Núi Đất 1509, Lão-Sơn hay Laoshan?
Sau khi Trung Cộng chiếm xong ngọn Núi Đất ngày 28 tháng 04 năm 1984 đã cho đổi ngay tên là “Laoshan” và theo nghiã Việt-Nam là “Lão-Sơn”.
Tại sao Trung Cộng lại đặt tên ngọn núi nầy là “Laoshan” mà không là những tên khác?
Sao một thời gian tìm tòi Việt Nhân khám phá ra tên ngọn núi “Laoshan” nằm tại vùng bán đảo Sơn-Đông phía Đông Bắc nuớc Trung-Hoa còn có một cái tên khác là “Yuan Min Shan”.
Đây là sự xảo-quyệt của Trung Cộng với mục-đích đánh lạc hướng không cho Việt-Nam đòi lại ngọn núi nầy vì nếu dân tộc Việt-Nam không hiểu rõ vấn đề cùng tọa độ của ngọn núi cứ đi đòi ngọn núi Lão-Sơn, bọn Hán tộc sẽ cười vào mặt dân tộc Việt-Nam và chỉ ngọn núi Laoshan tại bán đảo Sơn-Đông cho thế giới thấy là dân tộc Việt-Nam đòi những thứ không thuộc về mình.
Như thế là bọn chúng đã vô hiệu hoá chính-nghiã của dân tộc Việt-Nam trước thế giới.
Hình không ảnh núi Laoshan tại bán đảo Sơn-Đông đính kèm dưới đây có luôn cả tọa độ. 








http://www.strategypage.com/militaryforums/69-26764.aspx           war in laoshan 1984


Ải Đại-nam.
Trong bài “Án-Sử Ải-Nam Quan” Việt Nhân có đề cập đến điạ danh cuả một ải khác là Ải Đại-Nam mà từ trước đến giờ mọi người đều lầm tưởng chính là Ải-Nam Quan, ngay cả trong quyển sách “Biên-Giới Việt-Trung 1885-2000” của nhà biên khảo Nhân-Tuấn Ngô Quốc Dủng củng đề cập đến tên của ải nầy vì dựa vào tài liệu sử Tàu.
Thật ra “Đại-Nam” là tên của một nước, là “Đại-Nam Quốc” do Nùng Trí Cao đã dựng lên dưới thời nhà Lý khi Nùng Trí Cao phối hợp với Tư-Mã Lý Thường Kiệt để chinh phạt mìền Hoa-Nam cuả Nam Tống 3 lần và người ngồi trong trướng điều quân xa ngàn dậm là Linh Nhân Hoàng Thái Hậu nguyên là Ỷ-Lan thần phi dưới triều đại nhà Lý. Sau khi quân Đại-Việt nhà Lý rút về phương Nam, Nùng Trí Cao đã lên ngôi hoàng-đế lấy quốc huy là Đại-Nam Quốc và nước nầy làm trái độn giửa Đại-Việt và Nam Tống.
Như thế Ải Đại-Nam là ải giửa nuớc Đại-Nam và Nam Tống lúc bấy giờ bên sau các dảy núi Ngũ-Lĩnh miền Hoa-Nam chứ không phải Ả-Nam Quan tại miền Đồng-Đăng.
Một khi cải biến địa danh ải Đại-Nam xuống thành Ải-Nam Quan, có nghĩa là Trung-Hoa đã dời cả một vùng đất từ lảnh thổ Đại-Nam xuống lãnh thổ của Đại-Việt. Như thế là Đại-Việt đã bị mất một vùng đất trái độn rộng lớn, tức là vùng Bắc Biên phên dậu của Việt-Nam hiện nay.
Trong thập niên 1950s-1960s dân quê miền Nam Việt-Nam vẫn còn vẽ tranh lịch-sử đề cao cuộc khởi nghiã của những nhân vật anh hùng như Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao, nữ tướng Hồ-Đề…. đánh Nam Hán, Nam Tống để bày bán ngoài chợ vào những dịp xuân về. 

20
Khoanh tròn màu xanh dương là khu vực hồ Động-đình.
Khoanh tròn màu vàng là khu vực núi Ngủ-Lĩnh.
Lằn ranh màu cam nầy có thể là biên giới dưới thời: Đinh, Lê, Lý, Trần.
Khoanh tròn màu xanh lá cây là khu vực hai châu: Khâm-Châu và Liêm-Châu.  
Địa danh giống nhau hay gần giống nhau trên hai lãnh thổ Việt, Hoa.
Trước khi phân tích bản đồ dưới đây Việt Nhân xin xác định lại bản đồ nầy do Trung-Hoa thực hiện từ nằm 1953-1954 vì thế tất cả những địa danh dọc theo biên giới Việt, Hoa đều bị đổi tên theo âm Tàu vì thế đã có những hệ-lụy cho bên Việt-Nam sau những cái tên nầy rất nhiều, như việc dựa vào tên củ trong sách sử của Hán tộc để đi tìm đất củ sẽ không thể nào tìm ra.
Địa danh thứ nhất là Mao-p’ing trên lảnh thổ Trung-Hoa và Mao Ping trên lãnh thổ Việt-Nam. Cả hai địa danh nầy đều nằm trong khoanh màu đỏ.
Địa danh thứ hai là Ma-lu-t’ang trên lãnh thổ Trung-Hoa và Ma Lou Tang trên lãnh thổ Việt-Nam. Cả hai địa danh đều nằm trong khoanh màu xanh dương.
Địa danh thứ ba là Mao-ts’ao-p’o nằm trên đường ranh biên giới Việt, Hoa và Ma Tsao Pu nằm trong lãnh thổ Việt-Nam. Cả hai địa danh đều nằm trong khoanh màu cỏ non.
Nếu trong tương lai bản đồ nầy được vẽ lại vì một lý do nào đó và tên địa phương nằm trên lãnh thổ Trung-Hoa trùng với tên địa danh hay gần giống tên trên lãnh thổ Việt-Nam, bị xoá đi, sẽ tạo nên một sự nhầm lẫn, hay cố ý nhầm lẫn, như thế Việt-Nam sẽ bị mất một vùng đất lớn vì cả khu vực xung quanh địa danh đó bị dời sâu vào trong lãnh thổ Việt-Nam.
Đây là phương thức cướp đất tinh vi nhất, nguy hiểm nhất và nếu được phối hợp với bọn Việt giang làm tay trong như bọn Việt gian Hà-Nội hiện nay, dân tộc Việt-Nam sẽ không thể nào nhận thức được việc mất đất, mất lãnh thổ.
Tình trạng mất đất hiện nay là một ví-dụ điển hình.

Vấn đề Tam-Sa xảy ra vào ngày 2 tháng 12 năm 2007.
Cuối năm 2007 Trung Cộng đã tuyên bố xác nhập hai quần đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa vào đảo Hải-Nam để thành lập hệ-thống hành chánh Tam-Sa với những lý do như sau:
-Hợp thức hoá hai quần đảo Hoàng-Sa, Trường-Sa thuộc về lãnh thổ cuả Trung Cộng để đặt dân tộc Việt-Nam cùng thế giới vào một thế đã rồi.
-Công bố để hợp thức hoá một lãnh hải rộng lớn hằng triệu cây số vuông về phía Nam Trung-Hoa cùng những nguồn tài nguyên hải sản, khoán sản trên vùng biển Nam-Hải.
Nói ngắn gọn lại là cướp biển của Việt-Nam.
Còn một ẩn ý khác mà Trung Cộng vẩn nơm nớp lo sợ đó là vấn đề “chính danh”.
Mặc dù Phạm Văn Đồng đã ký xác nhận và gởi một công hàm dâng biển Đông-Hải của Việt-Nam cho Trung Cộng trong năm 1958 nhưng việc nầy Hồ Chí Minh và bọn Việt gian Hà-Nội chỉ có thể dấu dân tộc Việt-Nam chứ không thể dấu cả thế giới cho nên trước cộng-đồng thế giới Trung Cộng vẩn là một kẻ cướp nước người và Hồ Chí Minh cùng bọn Việt gian Hà-Nội là bọn bán nước không hơn không kém.
Đó là lý do tại sao cho đến nay Trung Cộng vẫn phải “lúng-túng” đối phó với việc “chính danh” bằng những phương pháp tạm bợ như đi tìm những chứng cứ, hay thuê người viết hằng ngàn cuốn sách để chứng minh chủ quyền của Trung Cộng trên vùng biển Đông Hải.
Hơn nửa Nan-Sa (Tàu) tức Hoàng-Sa (Việt-Nam) không thể là Nam Sa của Trung Cộng vì Nam Sa cuả Trung Cộng chính là đảo Hải-Nam chứ không thể là Hoàng-Sa cuả Việt-Nam.
Đây là cái “lúng-túng” thứ nhất của Trung Cộng.
Cái “lúng-túng” thứ hai cuả Trung Cộng là “Xi-Sa” hay Tây-Sa tức là Trường-Sa cuả Việt-Nam.
Phiá tây cuả nước Trung-Hoa không hề có biển như thế làm sao “Xi-Sa” hay Tây-Sa, tức Trường-Sa cuả Việt-Nam lại có thể là của Trung Cộng được?    
Trừ phi Trung Cộng lý luận rằng quần đảo Trường-Sa chính là thủ phủ Chang-Sa tại Hồ-Nam cuả Trung Cộng hiện nay đã một thời dưới quyền cai quản cuả Lĩnh-Nam Vương Trần Tự Sơn hay còn được biết dưới tên một nhân vật lịch-sử cuả Nam Hán là Nghiêm-Sơn hay còn gọi Nghiêm-Tử-Lăng một nhân vật nổi tiếng anh hùng hơn cả Quang Vủ, vua Nam Hán! 
(Điều nầy tương tự như trường hợp phủ Trùng-Khánh tại tỉnh Cao-Bằng mà tướng Dương Đắc Chí trong lúc tiến đánh Việt-Nam năm 1979 đã dự tính chiếm luôn phủ Trùng-Khánh vì cho là Việt-Nam đã chiếm phủ Trùng-Khánh tại Vân-Nam cuả Trung Cộng!)
Lý luận nầy cũng không đứng vững.
Thế cho nên bằng mọi cách Trung Cộng phải loại bỏ, xoá đi hai địa danh Hoàng-Sa và Trường-Sa cuả Việt-Nam giống như trường hợp địa danh núi “Lão-Sơn” mà thôi.
Đó là lý do Trung Cộng phải gấp rút công bố địa danh “Tam-Sa” và sau đó thay đồi tên địa danh nầy một lần nửa để xoá tan đi hai địa danh Hoàng-Sa và Trường-Sa cuả Việt-nam.
Thật là một âm mưu thâm độc cuả Hán tộc bắc phương!.
Mục tiêu chính cuả bài nầy.
-Đi tìm cao điểm Núi Đất 1509?
Đã tìm ra ngọn núi nầy cùng tọa độ tại khu vực Pha-Long trong châu Thủy-Vĩ, tỉnh Hà-Giang (Tuyên-Quang củ).
-Mất bao nhiêu đất?
Đã dự phỏng khu vực đất đã mất, đặc biệt tại khu núi Tây-Côn Lĩnh, dọc theo biên giới Thanh-Thủy tỉnh Hà-Giang chạy dài theo ngọn núi Tây-Côn Lĩnh.
-Chứng minh phương thức chiếm đất “tằm ăn dâu” bằng địa danh cuả Trung Cộng và sự tiếp tay cuả Việt gian Hà-Nội.
Có ít nhất là ba địa danh giống nhau hay gần giống nhau trong cùng một khu vực.
Từ đó chứng minh được âm mưu xoá tên Hoàng-Sa, Trường-Sa từ địa danh Tam-Sa.
-Mục đích công bố cuả bản đồ hành quân trận địa Núí Đất.
Đòn hỏa mù nhằm đánh lạc hướng dân tộc Việt-Nam do cả hai đảng Trung Cộng và Việt gian Hà-Nội phối hợp hành động.
Phần kiểm chứng thực địa còn lại xin dành cho những người dân Việt-Nam trong nước hay hải ngoại có khả năng đi kiểm chứng – dĩ nhiên bằng GPS có tọa độ chính xác-.
Bách Việt Nhân
Ngày mùng một tháng giêng năm Mậu Tý.
02/07/2008.
















Sunday, January 29, 2017

20170129 Cao Bằng Chiến Địa 1979

20170129 Cao Bằng Chiến Địa 1979.

06/04/2006 BVN
Bí Mật Lịch Sử Trên Mặt trận Cao Bằng
*** Lưu ý cùng đọc giả:
“Bài viết nầy đã dựa vào tài liệu trích từ tập sách “Binh đoàn Pác Bó” do bộ tư lệnh binh đoàn Pác Bó xuất bản năm 1989, tài liệu nầy chưa hẳn là tài liệu khách quan so với những tài liệu của các báo chí phương tây vì thế số lượng quân của cả hai phía TC lẫn CSVN tham gia trận chiến chưa hẳn là con số chính xác.
Riêng phần bản đồ được thực hiện từ WorldWind và WorldTravel.
Vì bài viết của tập tài liệu có tính cách tuyên truyền cho nên chúng tôi chỉ nêu ra những mục tiêu cùng các điểm chính của các mặt trận trong thị xã Cao Bằng. 
***Những ám ký của quân đội CSVN:
A = tiểu đội; B=trung đội; C= đại đội; D=tiểu đoàn; E=trung đoàn ; F=sư đoàn
Trong những mặt trận Việt Bắc thuộc 6 tỉnh miền Bắc nước Việt Nam trong cuộc chiến Việt – Trung năm 1979, có lẽ tỉnh Cao Bằng là tỉnh tang thương nhất vì sự tàn phá của bắc quân TC.
Lệnh từ Bắc Kinh là “tàn sát và san bằng, Kill everything live”.
Những huyện sau đây có biên giới chung với tỉnh Quảng Tây của TC là:

Bảo Lạc, Hà Quảng, Thông Nông, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Hạ Lang, Quảng Hòa, Thạch An.
Qua 3 cửa khẩu:
Tà Lùng (VN) - Thủy Khẩu (TC)
Phai Can (VN) - Long Bang (TC)
Sóc Giang (VN) - Bình Mãng (TC)
Đường giao thông chính giửa thị xã Cao Bằng và Lạng Sơn là quốc lộ số 4.
Từ Cao Bằng nối với Bắc Cạn và Thái Nguyên qua quốc lộ số 3.
Tháng 11/1978 quân TC gây rối tại đồi Chông Mu giửa cột mốc 62-63.
Tháng 2/1979 quân TC lại vượt biên giới qua cửa khẩu Phai Can để khiêu khích.
Lúc bấy giờ các đơn vị tác chiến của TC ở bên kia biên giới đã ở vào vị trí sẳn sàng tấn công, những toán thám báo, biệt kích đã tiến vào đất Việt.
Lực Lượng CSVN Sư đoàn 346 (F346) CSVN là đơn vị nồng cốt trấn đóng gồm có 3 trung đoàn (E):
Trung đoàn E246 trấn đóng huyện Hà Quảng.
Trung đoàn E677 lên Trà Lĩnh bảo vệ cửa khẩu Phai Can.
Trung đoàn E851 đóng chốt huyện Hòa An.
Trung đoàn E188 pháo binh yễm trợ toàn vùng.
2 Trung đoàn E567 và E852 là lực lượng dự bị bổ xung.
2 Tiểu đoàn D126, D126 là lực lượng đặc công xung kích.

Lực Lượng TC
Về phía TC, lực lượng TC đưa vào chiến trường được trải từ đông Móng Cái cho tới tây Lai Châu gần 60 vạn quân (600,000) gồm 11 quân đoàn và nhiều sư đoàn độc lập. Tư lệnh đại quân khu Quảng Châu chỉ huy trực tiếp mặt trận Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.
Tư lệnh đại quân khu Côn Minh chỉ huy mặt trận Hà Tuyên, Lào Cai, Lai Châu.
Riêng trận địa Cao Bằng TC huy động:
3 quân đoàn 41, 42, 50.
2 sư đoàn địa phương Quảng Tây.
4 trung đoàn độc lập.
200 xe tăng.
500 khẩu pháo đủ loại.
Các đơn vị đặc nhiệm trong chiến trận rừng núi.
Hằng chục tiểu đoàn của các công xã giáp biên.
Hằng vạn dân binh.
Quân đoàn 43, 54, 55 tiến chiếm Lạng Sơn.
Quân đoàn 13, 14 tiến chiếm Lào Cai (Hoàng Liên Sơn).
Quân đoàn 11 tiến chiếm Lai Châu.
Trong mặt trận Cao Bằng TC huy động 3 quân đoàn 41, 42, 50 tiến theo 3 mủi dùi:
Một cánh từ Thông Nông, Hà Quảng đánh xuống qua cửa khẩu Sóc Giang.
Một cánh từ Đông Khê, Quảng Hòa qua cửa khẩu Tà Lùng đánh lên tạo thành 2 gọng kềm tấn chiếm thị xã Cao Bằng.
Một cánh đánh thẳng vào Trà Lĩnh qua cửa khẩu Phai Can nếu mủi tiến công vượt qua được đèo Mã Phục sẽ uy hiếp và tiến chiếm thị Xã Cao Bằng.
Phối hợp với những cánh quân nầy của TC gồm các toán thám báo củng như những dân thiểu số tìm cách đóng chốt và chiếm giử những vị trí quan trọng như: Tài Hồ Sìn, Nà Bao, Cô Lê A mà mục tiêu chính vẩn là tiến chiếm thị xã Cao Bằng trong ngày 18 -19/2/1979.
Đêm 16 rạng sáng 17/2/1979 pháo binh TC dập nát các huyện Thông Nông, Hà Quảng, Trà Lĩnh, Quảng Hòa, cùng lúc ấy các toán thám báo, biệt kích đánh phá các đường dây liên lạc nối với thị xã Cao Bằng, thế là thông tin liên lạc về thị xã bị mất từ đó.
Mờ sáng 17/2/1979 quân TC đồng loạt tấn công khắp các mặt trận.
Mặt trận Thông Nông - Hà Quảng
Quân đòan 41 gồm bộ binh, xe tăng đánh vào Thông Nông-Hà Quảng qua cửa khẩu Sóc Giang và chiếm Thông Nông vào lúc 12 giờ trưa cùng ngày 17/2/4979, sau đó đạo quân nầy chia làm hai hướng:
Một mũi vượt Lương Can đánh phá nhà máy điện Tà Sa (Nguyên Bình)
Mũi thứ hai có xe tăng dẫn đầu vượt đèo Mã Quỷnh xuống ngã ba Dân Chủ đánh phá kho vũ khí của tỉnh đội mờ sáng ngày 18/2/1979.
Mặt trận Phục Hòa - Đông Khê
Quân đoàn 42 chia thành hai mũi đánh vào Phục Hòa - Đông Khê qua cửa khẩu Tà Lùng
Mũi thứ nhất TC tập trung xe tăng, pháo binh yễm trợ tiến theo đường lâm nghiệp Đức Long - Khâu Sung bất ngờ đánh thẳng vào Đông Khê sau đó theo đường số 4 tiến về thị xã Cao Bằng.
Mũi thứ hai cũng có xe tăng và pháo binh yễm trợ đánh vào Phục Hòa nhưng bị trung đoàn E567 đánh chặn nên quân TC buộc phải dừng lại ở chân đồi Khâu Chĩa nên không thực hiện được ý đồ vượt đèo sang Quảng Uyên, Mã Phục nhằm phối hợp với mũi tiến công ở hướng Trà Lĩnh.
Quân đoàn 50 có nhiệm vụ bổ xung và tiếp ứng.
Phía CSVN phòng thủ và phản công.
Trên hướng Sóc Giang - Hà Quảng. 
Trên hướng Hà Quảng trung đoàn E246, sư đoàn F346 tổ chức trận địa ở cửa khẩu Sóc Giang để kềm chân TC.
Tiểu đoàn D2 và D3 chận đánh các mũi tiến của TC trong suốt 4 ngày liền từ 17/2-1979 cho đến 22/2/1979.
Nhiều lần quân TC tràn lên các chốt Cốc Ngưu, Cốc Nhu, Cốc Vường đều bị đánh bật trở lại.
Tiểu đoàn D11 thuộc trung đoàn E188 pháo binh đã pháo trúng đội hình quân TC tại Sóc Giang khiến quân TC bị tổn thất và không tiến lên được.
Ngày 22/2/1979 TC cho quân vượt tiến theo ngã cột mốc19 rồi theo đường Pác Bó, Nà Mạ, Đôn Chương để tiến chiếm Sóc Giang và đổ quân về hướng Nam Hà Quảng.
Sóc Giang thất thủ quân CSVN rút về cố thủ.
Trên hướng Trà Lĩnh.
Hai trung đoàn bộ binh TC có pháo binh yễm trợ đánh chiếm bình độ 700, đồi Quyết Tử, đồi Thanh Niên, cao điểm 815.
Vì cao điểm 815 nằm giáp cửa khẩu Phai Can nên TC quyết tiến chiếm cho bằng được.
Quân CSVN đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.
Cao điểm 815 lọt vào tay TC trưa ngày 17/2/1979.
Trung đoàn E677 cho tiểu đoàn D6 cùng với một đại đội của tiểu đoàn 5 cố lên tái chiếm cao điểm 815.
Chiều 18/2/1979 tiểu đoàn D6 đánh thẳng lên cao điểm 815 và tái chiếm lại cao điểm 815.
 Trên hướng Hòa An.






Hai đại đội C5, C10 thuộc trung đoàn E851 chốt giử xã Bế Triều, huyện Hòa An
Trên Chốt Đông Khê.

Đại đội C7, thuộc tiểu đoàn D8 chốt chận Đông Khê.
Phục Hòa (đồi Khâu Chỉa).






                                            

                                               Tại Phục Hòa trung đoàn E567 đóng chốt để chận 2 sư đoàn quân TC có pháo binh và xe tăng yễm trợ, chính vì thế mà tiểu đoàn D1 đã bị pháo dữ dội. Nếu chiếm được Phục Hòa quân TC sẽ chiếm được đồi Khâu Chỉa và tiến đến Quảng Yên, Mã Phục. Tiểu đoàn D1 diệt được một số tăng của quân TC nên trung đoàn E567 giử vững được 12 ngày đêm.
Tài Hồ Sìn – Nà Bao.
Chiều ngày 18/2/1979 trung đoàn E852 đã có mặt tại chốt chận Tài Hồ Sìn. Yễm trợ cho E852 là những đơn vị như tiểu đoàn D126, D127, D734, D735, D737, D45 đặc công, E183 đã tập trung tại Ngân Sơn ngày 20/2/1979.
Nhiệm vụ của các đơn vị nầy là chốt chận đứng sức tiến quân của TC không để cho quân TC chiếm Cô Lê A, Nà Bao và tiến sâu vào mỏ Tỉnh Túc. Phải giử vững đèo Tài Hồ Sìn và chận đánh địch trên hướng Canh Tân, Quang Trọng.
Cùng trong ngày 20/2/1979 trung đoàn E852 đã đẩy lui được nhiều đợt tấn công của TC ở khu vực Tài Hồ Sìn, đại đội D74 pháo binh bố trí tại đèo Cao Bắc để yễm trợ.
Ngày 24/2/1979 thị xã Cao Bằng mất vào tay TC.









Đi đến đâu bọn chúng tàn sát, cướp phá, hủy hoại tới đó.
Khu vực Suối Giàng.

























Quân công binh Tàu đập phá đến viên gạch cuối cùng.



























Sau khi đã chiếm được Cao Bằng quân TC tìm cách tiến về phía Trà Lĩnh, Phục Hòa để bắt tay với những cánh quân trên các hướng nầy nhưng chúng không vượt qua được hai trung đoàn E567 và E677 ở Phai Can và Khâu Chỉa, mặt dù hai đơn vị nầy đã bị cô lập hoàn toàn và chiến đấu độc lập.
Ngày 28/2/1979 Hai trung đoàn E567 và E677 được lệnh bảo toàn lực lượng để chuẩn bị phản công.
Trung đoàn E567 theo đường Canh Tân – Minh Khai rút về an toàn, riêng trung đoàn E677 vất vả hơn phải vừa đánh vừa rút qua đường Thăng Heng – Hòa An.
Có một điều rất đặc biệt, một điểm son cho đội nữ dân quân tại huyện Hà Quảng, đội nữ dân quân đã sử dụng súng cối 60ly để tấn công quân TC tại Lũng Pỉa.
Ngày 07/3/1979 pháo binh CSVN mới phản kích trã đủa, dập pháo xuống tại ngã ba Khâu Đồn, ngã ba Lò Gạch, nơi tập trung quân của TC.
Ngày 10/3/1979 đại đội D45 đặc công CSVN đột kích và tấn công quân TC tại Nà Cáp.
Pháo binh CSVN vẩn bắn vào các điểm tập trung quân của TC.
Ngày 18/3/1979 Cao Bằng đã sạch bóng quân xâm lược TC.
Thế nhưng pháo binh của TC vẫn pháo sang biên giới Việt Nam có nơi sâu hằng 10km như những huyện: Hà Quảng, Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Thông Nông vào ngày 05/07/1980. Ngày 05/09/1980 pháo binh CSVN đã phản pháo.
TC vẫn cho những toán thám báo, biệt kích xâm nhập lãnh thổ Việt Nam để tấn công giết người, phá hoại như xã Tri Phương, huyện Trà Lĩnh.
Sau cuộc chiến tranh xâm lược ngày 17/2/1979, trong những tháng cuối năm 1979 đầu năm 1980, quân TC vẫn duy trì những lực lượng vũ trang lớn áp sát biên giới Việt Nam cấp trung đoàn, sư đoàn, các đơn vị hỏa lực pháo binh, các đơn vị hỏa tiễn.
Hoạt động trinh sát trên không và tung các toán biệt kích, thám báo sang Việt Nam.
Các vụ khiêu khích vũ trang liên tiếp diễn ra: pháo sang bằng súng cối, bắn tỉa, pháo sang kể cả bằng những hệ thống hỏa lực tầm xa.Áp dụng những chiến thuật lén lút như: xâm cư, xâm canh, di chuyển cột mốc, công khai lấn chiếm đất.
Ngoài ra TC còn có những hành động phá đập nước, đốt kho, gây dịch bệnh gia súc, đốt rừng, “mua” hoặc đổi rễ cây, móng trâu bò lấy hàng hóa nhằm phá hoại sản xuất, gây khó khăn về đời sống cho nhân dân Việt Nam.    
Đầu năm 1980, phía TC vẫn tiếp tục các hoạt động khiêu khích vũ trang như bắn pháo sang lãnh thổ Việt Nam: tung biệt kích, thám báo sang bắt cán bộ, dân đi làm nương, lấy củi ở các khu rừng sát biên đem về bên kia biên giới.
Từ năm 1980 đến năm 1982, riêng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã có hơn 70 toán biệt kích xâm nhập, 34 vụ dân binh có quân chính qui hỗ trợ trắng trợn vượt biên giới rỡ nhà của dân mang về TQ.
Quân TC đã giết chết 29 người, làm bị thương 21 người khác, bắt cóc 18 người, 20 nóc nhà nằm sát biên giới bị đốt phá khiến cho tình hình sản xuất và đời sống nhân dân không ổn định.
Từ ngày 16 – 21/4/1983 quân TC đã huy động một số đơn vị cấp sư đoàn, quân đoàn tấn công lấn chiếm nhiều cao điểm ở Tràng Định, Cao Lộc (Lạng Sơn) và các huyện Yên Minh, Vị Xuyên (Hà Tuyên).
Pháo binh địch bắn hàng ngàn quả đạn sang lãnh thổ Cao Bằng.
Nhiều em học sinh đang trên đường tới lớp bị pháo địch giết hại.
Một số nhà ở của dân bị cháy, nương ngô bị tàn phá.
Có người lo sợ bỏ bản đi nơi khác.
Năm 1984 phía TQ vẫn tiếp tục các hành động khiêu khích vũ trang.
Một số quân đoàn chủ lực của 2 đại quân khu Côn Minh và Quảng Châu cùng các sư đoàn, trung đoàn quân địa phương đưa thêm quân, vũ khí, phương tiện áp sát biên giới và diễn tập hiệp đồng quân binh chủng.
Tháng 2/1984 quân TC vượt biên giới lấn chiếm một số điểm cao thuộc các huyện Tràng Định (Lạng Sơn), Xín Mần, Yên Minh, Vị Xuyên (Hà Tuyên).
11 giờ 05 phút ngày 2/4/1984 cho đến ngày 15/5/1984, pháo binh địch bắn sang các xã giáp biên thuộc tỉnh Cao Bằng mười ngàn quả đạn pháo, cối đủ loại.
Có nơi đạn nỗ sâu trong đất ta vài kí-lô-mét, trúng các khu đông dân, trục dường giao thông, trường học, nhà trẽ..
Một số huyện lỵ như: Trà Lĩnh, Hà Quảng nằm cách đường biên giới khoảng từ 2-4 km luôn luôn bị uy hiếp.

***Sau đây là những điều thắc mắc của chúng tôi:
Tại sao bộ chính trị CSVN đã không dùng pháo binh hay không quân để tấn công quân TC khi chúng vẫn còn đang dàn trận bên kia biên giới? vẫn chưa bước chân vào được đất Việt Nam? mà phải đợi cho đến khi quân TC tràn sang với xe tăng, đại pháo, tàn sát trẽ em, cưỡng hiếp phụ nữ, cướp bóc dân lành để thi hành lệnh của trung ương Bắc Kinh là “tiêu hủy và tàn sát tất cả những sinh vật” nguyên văn bằng anh ngữ trên Chinese-defense forum là “Kill everything live” mới bắt đầu phản công?
Quân CSVN đã biết là quân TC sẽ tấn công vì chúng đã và đang xây công sự, dàn quân bên kia biên giới, dân quân TC tràn sang biên giới để khiêu khích, dân chúng trong những khu vực ấy ai cũng đều biết, thế nhưng bộ chính trị CSVN vẫn có thái độ thờ ơ, im lặng một cách khó hiểu?
Đây là thái độ bán nước một cách rõ ràng, trắng trợn.
Nghĩa là giao trọn thị xã Cao Bằng và những tỉnh dọc biên giới phía Bắc cho TC.
Bằng chứng cụ thể là binh đoàn Pác Bó cho đến ngày 16/07/1979 mới được thành lập, trong khi quân TC đã tràn vào lãnh thổ Việt Nam ngày 17/02/1979.
Trong khi đó quân TC đã chuẩn bị cho chiến tranh trong suốt năm 1976-1978.
Dưới đây là bản thời gian chuẩn bị của quân TC trước khi bước vào cuộc chiến trên web site:
Time line:

Nov 20, 1978 was the deadline for preparation in Army level.

Dec 8, 1978. CMC meetings on tactical details of the attack.

Dec 13, 1978. GuangZhou MR’s units debark to the border area.

Dec 14, 1978. Recon started.

Dec 25, 1978. Close border

Dec 26, 1978. All units arrived from GuangZhou MR.

Tuy nhiên cả hai phía TC và CSVN điều biết những điều trên là không đúng sự thật vì TC đã tổ chức những cuộc quấy phá, dời cột mốc, lấn chiếm đất từ năm 1970-1974, nhất là sau chuyến đi sang Bắc Kinh của ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissingger cùng những thỏa thuận ngầm của cả hai bên Mỹ-Trung đã khiến cho TC càng quyết tâm xâm chiếm Việt Nam.
Những nhân vật sau đây hiểu rõ dã tâm của TC hơn ai hết vì chính họ đã ký nhận việc bán nước với TC:
1- Lê Khả Phiêu
2- Nguyễn Dy Niên
3- Phan Văn Khải
4- Nông Đức Mạnh
5- Lê Công Phụng
6- Trần Đức Lương
7- Nguyễn Mạnh Cầm
Chúng tôi xin trích một vài đoạn văn sau đây trong một tài liệu mà chúng tôi sẽ cho lên web site  của VietNamExodus.org trong một ngày rất gần:
“……Bản hiến chương hiến đất cho Trung Quốc được chính Giang Trạch Dân và đảng CSTQ trả cho số tiền là 2 tỉ US Dollar được chuyển cho Việt Nam qua hình thức Đầu Tư….  
….Lý Bằng cho Lương biết là số tiền 2 tỉ Dollar để mua 16,000 sq km vùng vịnh Beibu của Việt Nam là hợp lý . Trần Đức Lương cám ơn ĐCSTQ về số tiền nầy. Số tiền 2 tỉ đồng nầy được Lương đem về để làm bớt sự phẩn nộ của Khải, Kiệt và những nhân vật khác trong quốc hội CSVN…..
…..Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang Trung Quốc để gặp ông Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung Quốc đã mua vùng Vịnh Bắc Việt của Việt Nam (Beibu Bay) với gía 2 tỉ US Dollar…”
Dưới đây là một đoạn trong thỏa ước giửa CSVN và TC bằng anh ngữ:
“…….Following the principles of mutual understanding and give-and-take, the two neighbours will not take drastic or military measures in carrying out the agreement on demarcation and fishing co-operation in the Beibu Gulf, which took effect on July 30…..”

xin tạm dịch:

( …Sau đây là những thỏa thuận chính mà cả hai phía “kẻ cho và người nhận” đã thấu hiểu là cả hai nước láng giềng sẽ không được dùng khả năng quân sự để cản trở việc phân chia lãnh thổ hay lãnh hải trong vịnh Bắc Bộ, thỏa  ước sẽ có hiệu lực kể từ 30 tháng 7….)  
Với những tài liệu như thế đã quá rõ ràng là bộ chính trị CSVN đã bán nước cho TC.
Đó là lý do mà tại sao quân TC cứ tiếp tục pháo qua lãnh thổ Việt Nam, vào sâu ít nhất là 10km:
-để khủng bố dân Việt
-để tiếp tục lấn đất
-để tìm tài nguyên quặng mỏ
-để giử đất và di dân xuống miền Nam, bên sau lằn đạn pháo binh
-những vùng pháo tự do là màng lưới an toàn cho dân TC tràn sang cấm dùi mà không sợ phía Việt Nam chống trả.
Như thế nếu căn cứ vào thỏa ước bên trên bằng anh ngữ là “… không dùng sức mạnh quân sự để cản trở việc cấm cột mốc …” thì phía TC đã phạm quy ước.
Dưới đây là bản đồ cho biết những khu vực đã bị TC xâm chiếm hay tiếp tục dội pháo sang.
Những địa danh sau đây vẫn bị quân TC chiếm đóng, được trích từ “Binh Đoàn Pác Bó” :
Nà Thấm (mốc biên giới huyện Quảng Hòa), đồi Chông Mu (giữa mốc biên giới 68-63 huyện Trùng Khánh), cao điểm 856 (huyện Trà Lĩnh), cao điểm 822 (mốc biên giới 107 huyện Hà Quảng), khu vực Trúc Long-Địa Lan (mốc biên giới 114-115 huyện Hà Quảng), bản Lang, bản Hia, bản Tổng Moòng (huyện Trà Lĩnh) Cốc Ngưu, Cốc Vường, Háng Cáu (Hà Quảng), các cửa khẩu Tà Lùng, Phai Can, Sóc Giang, bàn Xoa, xã Tri Phương, huyện Trà Lĩnh, TC đã lấn chiếm nhiều cao điểm ở Tràng Định, Cao Lộc (Lạng Sơn), các huyện Xín Mần, Yên Minh, Vị Xuyên (Hà Tuyên)
Những vùng pháo binh TC vẫn bắn sang sâu hàng 10km như:
Hà Quảng, Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Thông Nông.
Từ 02/04/1984 đến 15/05/1984, pháo binh TC đã bắn sang Cao Bằng 10,000 quả đạn pháo đủ loại sâu vào trong đất Việt Nam.
Tổng kết tổn thất sau chiến tranh 1979, trích từ “Binh Đoàn Pác Bó”
7 huyện và thị xã bị phá hủy.
40 / 49 nông trường bị phá hủy hoàn toàn.
51 cầu bị sập.
5 trường cấp III bị pha hủy.
50 trường cấp II bị hủy.
59 trường cấp I bị hủy.
11 bệnh viện bị hủy.
15,000 tấn lương thực bị cướp.
12,000 trâu bò bị cướp hay giết.
30,000 con lợn bị cướp hay giết.
Cho đến nay vẫn chưa tính được số nhân mạng dân, quân Việt Nam đã mất chỉ trong cuộc chiến 1979 một cách chính xác.
Với những tổn thất nặng nề như thế, với số lượng lớn lãnh thổ, lãnh hải mất như thế trong hiện tại mà chưa nói đến những nguy cơ mất nước trong tương lai vì những hàng rào phòng thủ thiên nhiên đã bị mất về tay TC, thế nhưng bộ chính trị CSVN vẫn luôn luôn tuyên truyền là Việt Nam đã có lợi khi ký những hiệp ước biên giới trên đất liền lẩn trên biển rất bình đẳng với TC!
Đúng là giọng lưỡi của kẻ bán nước, buôn dân!
Với những thỏa ước trên giữa bộ chính trị CSVN và TC, có thể được vô hiệu hóa bằng cách là 85 triệu dân Việt Nam bỏ phiếu bất tính nhiệm bộ chính trị CSVN, như thế những vùng đất và biển đã mất sẽ do chính dân tộc Việt Nam đòi lại từ trong tay TC khi nội lực Việt Nam đủ mạnh để tranh bá với TC, sẽ đòi lại từng tấc đất, tấc biển đã mất.

06/04/06
Bách Việt Nhân.